Đặng Phú Phong – Phỏng vấn nhạc sĩ Lê Văn Khoa

Jul 26, ’12 5:57 PM

pour tout le monde
Về Nhạc sĩ Lê Văn Khoa:
 
Đặng Phú Phong (DPP):
Thưa Nhạc sĩ Lê Văn Khoa, rất nhiều người nghe tiếng tăm anh, rất nhiều người từng nghe nhạc, xem những ảnh nghệ thuật của anh, nhưng có lẽ tiểu sử của anh ít người rành rẽ cho lắm; anh có
thể cho biết tiểu sử của anh?
Lê Văn Khoa (LVK):
Thưa ông Phong, nếu ông hỏi tôi câu này 30 năm trước, có thể tôi viết rất nhiều, nhưng bây giờ tôi thấy không có gì đáng kể, xin anh ghi cho như
vầy: Lê Văn Khoa, một  người Việt Nam bình thường, là đủ.

DPP:
Anh là một người đa tài, nếu muốn nói về những cái tài ấy chắc chắn
chúng ta không thể nói hết trong phạm vi của một bài phỏng vấn. Vậy xin đề nghị hôm nay chúng ta chỉ đề cập đến một vài nét chính yếu trong lãnh vực âm nhạc của anh.
Lý thuyết hòa hợp Đông Tây trong âm nhạc mà anh đưa ra có thực sự hòa hợp hay không? Anh có thể giới thiệu một vài bài thật tiêu biểu nhất mà anh đã sáng tác theo chiều hướng ấy?
Lê Văn Khoa:
Khán giả Việt Mỹ đã vô cùng hào hứng vổ tay hò hét muốn bể hí viện khi nghe  ban hợp xướng Ngàn Khơi và ban hợp xướng Westminster Chorale hát chung
bài dân ca “Se Chỉ Luồn Kim” bằng tiếng Việt, do tôi viết cho hợp ca và dàn nhạc giao hưởng. Tôi
nghĩ điều đó nói lên được sự hòa hợp Đông Tây. Symphony “Việt Nam 1975” là sự kết hợp này.
Nói về lý thuyết của sự hòa hợp âm thanh, tôi tìm thấy nhiều điều rất hào hứng mà chưa sách vở nào nói đến. Trên khía cạnh thực hành, tôi đem cái đẹp của Tây phương (hòa âm) và cái đẹp của
Việt Nam (giai điệu) hòa trộn nhau để có một âm sắc khác mà nếu cả hai đứng riêng ra thì không thể nào có được. Tôi nhớ Rudyard Kipling có viết: Đông là Đông và Tây là Tây, hai bên không thể
nào gặp nhau được.
Tôi xin đổi chữ Đông và Tây thành Đường và Muối, hai chất mặn, ngọt hoàn toàn trái ngước nhau, nhưng ta vẫn dùng đường chung với muối để làm thức ăn, làm nước chấm, ngay cả khi nấu chè, một
chút muối vào lại tăng vị ngọt dịu của đường. Anh có thể nghĩ vì tôi đưa ra lý thuyết này nên tôi cố bênh vực quan điểm của tôi. Bây giờ hãy để người ngoài thẩm định…
DPP:
Cảm ơn anh vừa đưa ra một ví von rất thú vị là dùng sự kết hợp giữa Đường và Muối để diễn tả sự kết hợp âm nhạc của Đông và Tây. Tôi rất thích cách so sánh này.
Anh cũng cho biết âm nhạc của anh là : “đem cái đẹp của Tây phương (hòa âm) và cái đẹp của Việt Nam (giai điệu) hòa trộn nhau để có một âm sắc khác mà nếu cả hai đứng riêng ra thì không thể
nào có được”. Nhưng nếu đứng theo quan điểm bảo tồn và cổ súy nền âm nhạc cổ truyền của nước nhà thì sự kết hợp âm nhạc của anh có đối chọi lại không? Nếu có anh sẽ lý giải như thế nào để hòa
hợp hai quan điểm trước khi thưởng thức nhạc kết hợp Đông Tây của anh?
LVK:
Tôi xin thưa, điểm bảo tồn và cổ súy ông nêu ra hoàn toàn trái ngược với điểm phát triển của tôi nên đối chọi là cái chắc. Quan điểm này năm 1974 tôi đã thảo
luận với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba ở Tì Bà Viện của ông. Ông Nguyễn Hữu Ba khẳng định nhạc cổ truyền phải được sử dụng bằng nhạc cụ dân tộc. Tôi chủ trương phải đưa nhạc Việt vào dòng nhạc thế
giới để có sự đóng góp của Việt Nam hơn là đứng riêng một mình. Muốn làm vậy ta phải hy sinh một ít để được lợi nhiều hơn. Hy sinh nét luyến láy để có được nhiều người trên thế giới chơi được
nhạc Việt. Bên Tây phương nhượng bớt sự chính xác tối đa của kỹ thuật trình diễn để láy nhẹ theonét Đông phương. Tôi xin được trích lời nhạc trưởng Andrew Wailes của The Royal Melbourne
Philharmonic Symphony Orchestra: “. . . Nhạc được dùng theo âm giai ngũ cung thay vì thất cung như nhạc Tây phương. . . Tác giả đã cho vào những âm thanh rất độc đáo để tạo thành nét nhạc
Việt
Nam. Về đàn violin chúng tôi chơi nhạc ở bán độ, nhung trong tấu khúc Việt Nam 1974 của soạn nhạc gia Lê Văn Khoa, nhiều chỗ chúng tôi phải uốn âm thanh vào phân nửa của bán độ . . .” Chúng
ta phải thấy rằng đây là một cuộc thương lượng, mỗi bên phải hy sinh một ít. Không ai thủ đắc hoàn toàn. Tôi tôn trọng ý kiến bảo tồn. Nhưng nếu cứ như vậy, nét nhạc độc đáo của mình sẽ biến
mất lần theo thời gian, vì càng ngày càng ít có người chịu và chuyên học nhạc cổ truyền.
Âm nhạc như ngôn ngữ, nếu không dùng, không biến hóa, không thích nghi với thời đại, nó sẽ bị lãng quên. Đã có bao nhiêu ngôn ngữ không còn trên thế giới? Văn minh Hy-lạp, La-mã rực rỡ thế
nào, nhưng ngày nay  tiếng La-tinh chỉ còn được dùng trong giới tu hành Công giáo và có mấy ai biết tiếng Hy-lạp. Việt Nam ta quá nhỏ bé, làm sao cho thế giới biết đến và nhất là dùng
nhạc của mình? Ta nên bảo tồn nhưng đồng thời cũng cần phát triển. Ta không thể dạy hay buộc mọi người trên thế giới học nhạc cụ cổ truyền Việt Nam để đàn nhạc Việt. Tôi nghĩ mình phải dùng
nhạc Việt, viết lại cho nhạc cụ phổ thông thế giới, sẽ có nhiều người tấu nhạc Việt hơn, và nhạc Việt sẽ vang xa hơn là nằm im trong một góc nhỏ của địa cầu. Nói chí cùng bao nhiêu phần trăm
nhạc cổ truyền của ta thực sự là nhạc của dân tộc Việt? Bao nhiêu phần trăm nhạc cụ của ta là nhạc cụ do người Việt sáng chế?  Tôi nghĩ tinh thần là quan trọng nhất. Tinh thần dân tộc
Việt vẫn còn ở trong lòng người Việt dù ngày nay khi ra đường ta không thấy ai mặc áo  dài khăn đóng. Áo đầm quần tây đã làm người Việt mất gốc hết rồi chăng? Cả ông và tôi đều không mặc
áo bà ba quần đen có nghỉa ta không phải là  người Việt Nam sao? Tôi không nghĩ như vậy. Nói rộng hơn một tí, hơn 90  phần trăm tân nhạc của ta, nếu bỏ lời ca, ai dám nói đó là nhạc
Việt?  Như vậy tại sao ta vẫn gọi đó là nhạc Việt? Ngày nay ta nói tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức v. v. . . để chuyên chở ý tưởng, văn hóa, nghệ  thuật Việt Nam là mất
gốc chăng? Ta dùng tiếng Anh trên đất nước này dù là nói ngọng, nói đớt để ngươi ta hiểu mình hay là cho tiếng Việt là siêu đẳng không dùng  tiếng nào khác để… không ai hiểu minh? Cái
nào lợi hơn? Tôi nghĩ ta nên  theo đà tiến bộ của thế giới ngày nay để làm cho tiếng nói của ta được lắng nghe và kính nể, hơn là co lại cho riêng ta. Nếu Chopin dùng dân  nhạc Ba
Lan, Liszt dùng nhạc Hung để viết cho piano, Tchaikowsky dùng  dân nhạc Nga để viết những tấu khúc lớn của họ nhờ đó thế giới nhận diện được nhạc của các quốc gia đó. Còn nhiều nữa,
Brahm, Batok, Moussorsky, Gershwin, Tan Dun v. v. . . Họ làm vậy không do thị hiếu mà do tinh  thần dân tộc bộc phát sau thời đại classic kéo dài đến ngày nay. Việc  tôi dùng nét
nhạc phổ thông dân tộc viết lại cho nhạc cụ Tây phương để ghi dấu ấn Việt Nam khi người ta chơi nhạc của  tôi viết là theo tinh thần dân tộc của những người đi trước. Nhạc sĩ 
Nguyễn Hữu Ba vẫn giữ ý kiến bảo tồn nhạc dân tộc của ông cách đáng  kính. Tôi theo đường hướng của tôi là phát triển để đưa nhạc Việt ra  khỏi biên giới Việt mà hòa vào thế giới.
Vì đơn thân và không có nguồn tài trợ nào, tôi chưa làm được nhiều, nhưng nhạc Việt do tôi viết đã  được trình diễn ở nhiều quốc gia. Nhạc Việt của tôi soạn đã được dạy ở  vài
trường đại học Hoa Kỳ và trường nhạc ở Ukraine. Tôi tiếp tục đi trên con đường này và kêu gọi các bạn trẻ dấn thân tiến lên, đi xa hơn để  làm đẹp hai tiếng Việt Nam.

Nhạc sĩ Lê văn Khoa đang điều khiển dàn nhạc tại một buổi hòa nhạc tại Knotts Berry Farm

DPP:
Đại tấu khúc (Symphony) « Việt Nam 1975 » được lưu giữ ở bảo tàng viện  của nước Úc Đại Lợi, đã giúp tên tuổi anh thật sáng chói trên vòm trời  nghệ thuật. Anh được nhiều người phong
tặng là « Viết Lịch Sử Việt Nam  Bằng Âm Nhạc ». Xin anh giới thiệu thêm về bản Symphony lịch sử này.
LVK:
Biến cố tháng Tư 1975 là vết thương lòng lớn của mọi người Việt Nam. Tôi  muốn ghi lại giai đoạn lịch sử này và biến nó thành đài tưởng niệm lưu  động
để nhắc nhở người ở khắp thế giới về biến cố này. Vì nhạc không lời nên sau nay dù con em chúng ta không còn biết tiếng Việt cũng có thể  hiểu được lý do vì đâu mà chúng không ở trên đất
tổ của mình. Tôi bắt  đầu thực sự viết tác phẩm này viết từ năm 1985, sau khi hay tin ông thân của tôi  qua đời ở Việt Nam. Vì không biết làm sao để thực hiện tác phẩm này nên 
viết rồi ngưng trong nhiều năm, rồi viết lại. Đến năm 1995 thì hoàn  thành bản viết, nhưng không có tiền để thực hiện. Ban Hợp Xướng Ngàn  Khơi tiếp tay bằng cách gây quỹ giúp tôi.
Đến năm 2005 tôi được Kyiv  Symphony Orchestra and Chorus nhận lời thu thanh. Do đó tôi đi Ukraine  đầu năm 2005 để thực hiện phần thu thanh cho CD Symphony “Việt Nam 1975” vừa kịp
dịp ngày kỷ niệm năm ly hương thứ 30.
Tôi dùng nhạc để vẽ  bức tranh lịch sử Việt Nam, bức tranh ấy đã được các giới sử dụng nhạc  không lời thông cảm và hiểu nhau. Tôi xin nhường lời cho nhạc trưởng  Andrews
Wailes của The Royal Melbourne Philharmonic Orchestra (một dàn nhạc có lịch sử 200 năm, Úc Đại Lợi). Ông ấy đã đáp lời cuộc  phỏng vấn của đài phát thanh Quốc Gia Úc Châu: “

Symphony Việt  Nam 1975 là một tác phẩm lớn về một thời điểm có thật, một quốc gia và  con người thật. . . Nhạc rất hay, rất sắc xảo, tinh vi. . . . Bằng dân  nhạc Việt Nam
tấu khúc giới thiệu một quốc gia thanh bình, rồi cộng sản  đến . . . . . nhạc chuyển qua âm thanh mới hơn cho hợp với hoàn cảnh  khắc nghiệt. Rồi người ra đi, gặp bão tố, chết chóc,
cuối cùng những  người đến được bến bờ họ ca ngợi tự do. Nhạc từ từ mở ra một bài hợp ca  thật vĩ đại, thật hào hùng được phối khí đầy kín. . . Symphony Việt Nam  là một tác
phẩm rất hùng tráng, một tác phẩm lớn để thưởng thức. . .”
Xin
ông biết cho rằng tôi không có gạ ý để ông ấy nói như vậy. Tôi chỉ biết khi được  nghe qua làn sóng phát thanh. Qua âm thanh người ta hiểu được câu chuyện diễn tả bằng nhạc.
DPP:
Dạ Khúc (Nocturne) là một thể nhạc  khá đặc biệt của nhạc cổ điển Tây phương, rất nhiều đại nhạc sĩ tài ba  như: Frederic Chopin, Ludwig van Beethoven , Robert
Schumann … đã viết  những dạ khúc để đời. Anh cũng viết  » Dạ khúc cho vĩ cầm và dương cầm »  và nữ nghệ sĩ người Ukraine là Svyatoslava Semchuck trình bày bằng vĩ
cầm đã được nhiều nhạc sĩ khen ngợi. Xin anh trình bày về kỹ thuật sáng  tác thể loại Dạ khúc và giới thiệu thêm về bản Dạ khúc của anh.
LVK :

Kỹ thuật sáng tác không phải là một đề tài thú vị để bàn luận, nhưng
điều quan trọng là sự xúc cảmcủa người viết nhạc, và còn quan trọng hơn nữa là người nghe nhạc qua  tài diễn tả của người trình diễn, có cảm thông được nỗi lòng người viết  nhạc hay
không. Tôi may mắn gặp được một danh cầm ở Kyiv (Kiev) thủ đô  xứ Ukraine, cô Sviatoslava Semchuck, giáo sư violin của nhạc viện quốc  gia Tchaikowsky ở Kyiv, và cô đã diễn tả xuất
thần nhạc phẩm Nocturne của tôi. Sự diễn tả của cô đã gây xúc động cho người nghe và tôi nhận
được một bài viết rất giá trị của nhạc sĩ vĩ cầm Đàm Xuân Linh về bài Nocturne.
Tôi cũng nhận được những lời nhận xét của những người nghe nhạc. Họ không phải là người Việt Nam…
Âm nhạc khó hiểu hơn nhiều bộ môn nghệ thuật khác vì nó rất trừu tượng và  đòi hỏi phải có ba yếu tố tương xứng để định vị: Sáng tác, trình diễn và thưởng thức. Nếu một trong bộ ba
vừa  nói kém khuyết thì giá trị của nhạc khác ngay. Bài Nocturne cho violin  và piano tôi viết từ 30 năm trước, nhưng chỉ để đó thôi. Do một may mắn  mà tôi gặp được danh cầm
Sviatoslava Semchuck trong khi tôi đi qua Kiev  để thu thanh CD Symphony “Việt Nam 1975”. Cô Sviatoslava thì viết rằng  do một may mắn (tiền định) mà cô được gặp và đàn nhạc của
tôi. Tôi nghĩ  cũng do may mắn mà có người nghe được CD Memories của tôi, nhờ đó cả ba  tấm lòng cùng thông cảm nhau dù tôi chưa được gặp những người nghe nhạc tôi và có lời nhận
xét ở trên. Cả ba đều ở những phương trời khác nhau,  chiu ảnh hưởng văn hóa khác và ngôn ngữ khác nhau. Người nghe nhạc chưa  hề biết người viết nhạc và nghệ sĩ trình diễn. Sự
thông cảm này không bằng ngôn ngữ của loài người và  không phân biệt chủng tộc. Nó thật thầm lặng nhưng rất nhiệm mầu.
DPP:
Năm ngoái Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ và thân hữu đã tổ chức một chương trình qui mô để trình tấu nhạc của anh. Xin anh nói qua về chương trình này.

LVK:
Tôi rất biết ơn Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ và thân hữu đã tốn rất nhiều công sức và tài chánh để thực hiện chương trình nhạc với chủ đề “Lê Văn  Khoa, Người Viết Lịch Sử Bằng Âm Nhạc.” Đây là
chương trình đầu. Chắc  chắn hội sẽ thực hiện những chương trình khác tương tự để vinh danh  những người có công trong cộng đồng Việt hải ngoại. Chương trình đêm  nhạc 11 tháng
Mười năm 2008 tại Richard and Karen Carpenter Performing  Arts Center (Carpenter theater) thật qui mô chưa từng có với một dàn nhạc giao hưởng 60 nhạc sĩ đầy đủ các phần của một dàn nhạc
giao hưởng  chính thức. Lực lượng ca sĩ hùng hậu với các đàn chị như Kim Tước, Quỳnh Giao và những ca sĩ thành danh sau này như Nguyễn Hồng Nhung, Bích Vân, Y Phương, Bích Liên, Ngọc Hà,
Melody Versoza, Lâm Nhật Tiến, Phạm Hà, Lê Hồng Quang, Ban Hợp Xướng Ngàn Khơi và Tứ Ca  Thùy Dương. Ngoài nhạc của Lê Văn Khoa viết, khán giả còn thưởng thức  những tác phẩm quen
thuộc như dân ca, nhạc của Lê Thương, Phạm Duy,
Dương Thiệu Tước, nhạc của người trẻ Trúc Hồ, Lê Minh Khải được các  giọng ca trình diễn vô cùng độc đáo với dàn nhạc giao hưởng. Đặc biệt có 4 nhạc sĩ quốc tế từ Kiev (Ukraine) đến trình
diễn nhạc Việt chứ không  phải nhạc cổ điển Tây phương. Đặc đáo hơn nữa và cũng nằm trong ý nguyện đưa nhạc Việt thoát vòng cương tỏa cố hữu, qúy khán giả đã được xem một cô gái Ukraine
dùng nhạc cụ dân tộc Ukraine để trình bày dân ca Việt.
Với chi phí rất lớn, khó có thể có một chương trình tương tự trong tương lai gần. Tôi nghĩ đây là một  dịp để ta được nở mặt nở mày với thế giới.

Hôm nay, Lá Thư Úc Châu xin chia sẻ cùng Thân hữu Nhạc phẩm: Ngủ Đi Em của Nhạc sĩ tài danh Lê Văn Khoa, qua tiếng hát của (phu nhân) Ngọc Hà
và nghe những bài hòa tấu Piano của Cô Minh Ngọc.

Ce contenu a été publié dans Tiêng Viêt. Vous pouvez le mettre en favoris avec ce permalien.