Những con mắt trần gian. Hàn Lệ Nhân.

Những Con Mắt Trần Gian


Trước khi bước sang phần mắt mù và mắt không ngươi, trọng tâm của bài phiếm luận nầy, chúng ta cũng nên chấm phá sơ qua những con mắt bệnh phổ thông trên cõi ta bà nầy hầu tránh chuyện riêng tây
thiên vị. Trên kia chúng ta có nhắc tới cặp mắt nháy không ngừng nghỉ của tông tông François Mittérand, nay hãy cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân.

Tông tông Mittérand nháy liên tục là do mắt ông bị lông cặm hay quặm. Mắt lông cặm là mắt có lông nheo mọc ngược đâm vào tròng mắt, do bệnh đau mắt hột sinh ra. Nguyên do tạo ra bệnh nầy không
nằm trong khả năng của người viết, người viết chỉ xin mạo muội bàn sơ cái tác động của nó thôi. Ai mắc phải trường hợp cặm mới cảm thông, chia sớt được nỗi sót, niềm đau cũng như cái ngứa, cái
khó chịu gây nên bởi những sợi lông nheo  » phản động  » đó. Oái ăm nhất là cái ngứa từ những sợi lông nheo mới nhú, chĩa vào hai khoé mắt. Xưa, cạnh nhà tôi có một bà lão tên Minh bị chứng lông
cặm nầy, em gái tôi thường qua nhổ dùm bà, nhưng nhổ sợi nầy thì vài hôm sau sợi khác lại nhú ra. Sau đó bà bị mù, nay đã qua đời.

Loạn thị là một loại mắt kỳ khôi, tiếng Pháp gọi là Daltonisme. Người bị bệnh nầy nhìn màu xanh ra màu đỏ. Lái xe mà vướng bệnh nầy thì làm sao hè ?

Kế đến là cặp mắt cận thị ( thấy gần mà chẳng thấy xa ) và cặp mắt viễn thị ( thấy xa mà chẳng thấy gần ). Trên mặt nổi của sự kiện, hai bộ mắt nầy đã được con người – đúng hơn là giới thương mại
– thẩm mỹ hoá bằng đủ loại kính, đủ loại gọng. Ngoài ra còn một loại Verre de Contact, đại khái ta có thể hiểu nó là một mảnh thủy tinh nhỏ độ đầu ngón tay vô danh. Người bị cận thị hay viễn thị
– nhất là phái đẹp, thay vì đeo kính có gọng, có tác động làm húp mắt – mua bỏ vào tròng mắt, lúc cần có thể lấy ra dễ dàng.

Trong cuốn  » 40 Năm Nói Láo « , nhà văn Vũ Bằng có kể câu chuyện về một nhân vật trong làng báo việt nam :

« Tạ Đình Bính có cái tính kỳ lạ là thấy ai có cái gì, dù xấu dù tốt, cũng nhận luôn là mình cũng có thứ ấy như ai. Một hôm TchyA ( nhà văn Đái Đức Tuấn ) nói chuyện về cái tật cận thị của
ông Phạm Quỳnh, Bính đang hút, bỏ luôn dọc tẩu, ngồi phắt dậy và chỉ vào mắt mình, nhận anh cũng cận thị. Một vài tháng trôi qua. Cũng nằm bên bàn đèn, có người nói rằng cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
viễn thị, tìm mua mãi một cái kính vừa mắt mà không sao mua được. Đang đeo kính, Bính bỏ ra đặt xuống bàn, nói :

 
– Bỏ cha chưa, các người thông thái có nhiều điểm giống nhau kỳ lạ : Tớ cũng viễn thị !
 
Bất ngờ trong buổi họp mặt lần nầy lại có TchyA. Anh nầy, không gượng nhẹ gì hết, lật tẩy luôn Tạ Đình Bính :
 
– Tao chịu mày quá. Ba xạo đến như mày là vô địch. Tao còn nhớ cách đây không lâu, mày bảo mày bị cận thị như Phạm Quỳnh ; hôm nay mày thấy Nguyễn Văn Ngọc viễn thị, mày lại khoe mày viễn
thị. Thế thì mắt mày là cái thứ gì ?

Giả thử ở vào trường hợp một người khác bị bắt quả tang nói láo như thế, ít nhất cũng cuống lên, ấp a ấp úng một lúc rồi muốn trả lời ra sao mới trả lời được. Đối với Tạ Đình Bính thì không,
tuyệt đối không. TchyA chưa chửi hết câu thì Bính đáp liền, không cần nghĩ ngợi, tuồng như cái tật nói phét, nói dóc, ngụy biện lúc nào cũng nằm sẵn ở trong máu anh rồi :

 
– Ồ, thế thì mày không biết tao rồi. Mắt nầy tao cận thị, còn mắt bên nầy thì viễn thị. Tao nói dóc thì tao không trông thấy mày.

Rồi sợ anh em chưa đủ tin, Bính bình luận tiếp với một sự vững tin ghê gớm : Thực quả, tao chưa thấy mấy trường hợp một mắt viễn thị, một mắt cận thị như thế bao giờ. Chính tao cũng lạ cho
tao, nhưng sau tao nghĩ có lẽ đây là một dị tướng, chớ không phải là chuyện đùa
. ».

Mẫu chuyện về ông Tạ Đình Bính làm tôi nhớ đến huyền thoại cận đại nầy :

• Mấy bửa trước khi Liên Sô và Đông Đức bất thình lình cho xây bức tường ô nhục ngăn đôi Bá Linh thành Tây Bá Linh và Đông Bá Linh ( 13/08/1961 ), người ta thấy trước một cửa hiệu nhãn khoa, phiá
Đông Bá Linh, tấm bảng như sau :

Quí vị nào cận thị xin đến tiệm kính đầu đường.
Quí vị nào viễn thị xin hãy theo tôi.

Cặp mắt kính cận và viễn thị nói riêng là một phát minh nhất cử lưỡng tiện, nói rõ là không những nó bình thường hoá con mắt bệnh mà còn trang điểm cho khuôn mặt nữa. Chả thế mà đi một vòng tiệm
Optique 2000, Générale Optique, Frères Lissac … ( chuyên bán kính ) ở Pháp, tính ra cũng có đến hàng ngàn kiểu gọng, to nhỏ, vuông tròn, méo bầu … Nhưng than ôi, ông tổ cuộc phát minh nầy, dầu
đeo thật nhiều cặp kính cùng một lúc cũng không tài nào  » nhìn thấy  » trước được ở cuối thế kỷ 20 có một cái hoạ chết người nguyên do phát xuất từ đứa con đẻ của ông. Đó là trường hợp điển hình
bên xứ Chùa Tháp, Khmer XHCN của Polpot và Ieng Sary. Theo lệnh Polpot, Ieng đã giải toả thành thị, đẩy dân xuống ruộng, bỏ luật lưu thông, hệ thống tiền tệ, học đường và thủ tiêu tất cả những ai
chống đối, đặc biệt trự nào mang kính trắng trên mặt, để tạo dựng một lớp người mới, một lớp vật mới thì đúng hơn, vì, theo Duy Vật Biện Chứng Pháp, con người chỉ là một khối vật chất, chỉ là
chuổi phản ứng tự động máy móc, một con chó của Pavlov ( 1 ). Cho nên tri thức là một xa xí phẩm cần phải tiêu diệt. Và một sớm một chiều, trên xứ Chùa Tháp, cặp kính trắng bỗng trở thành biểu
tượng cho giai cấp trí thức, mà đã là trí thức thì không thể là con vật và đã không phải là con vật thì nhân danh nhân đạo, nhân danh tiền đồ Thế Giới Đại Đồng Vô Sản … Xuất, Ieng Sary phải đưa
họ sang thế giới khác ! Chuyện xứ Chùa Tháp trong chế độ XHCN của Polpot, dưới mắt của một số người, đã qua từ lâu, không nên nhắc lại, hơn nữa vụ án về Khmer Đỏ đang ngủng ngẳng tới hồi chung
cuộc ; nhưng đảo mắt nhìn chung quanh xứ Chùa Tháp, mặc cho ai khua môi múa mép định hướng nầy, định hướng khác ; mặc cho ai ảo thuật mà mắt thiên hạ : chuyện tiêu hũy sách báo vẫn còn đó, lịch
sử vẫn còn đó, nỗi đau, nỗi hận vẫn còn đó … Nháy mắt một cái vừa tròn 30 năm ! Thôi oán thôi hờn nhưng không thể thôi nhớ.

Mất ánh sáng của đôi mắt đối với con người xương thịt là nỗi khổ đau trọn vẹn, là mất tất cả ý sống trên đời. Năm tôi 15 tuổi, tưởng đã bị mù, may nhờ bác Cầm, mẹ chị Lê Thị Bạch Yến, ròng rã hai
tháng trời, dùng thịt chân cua đồng nhúng thuốc gia truyền rà cho mới khỏi. Giá trị của đôi mắt lành lẻ, nỗi đau cùng cực của một kẻ chẳng may bị mù đã được sách vở ghi lại quá nhiều. Ở đây tôi
chỉ xin mượn khúc hát Người Nghệ Sĩ Mù của cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ làm căn cứ cho phần viết tiếp : 
« Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca
Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa
Tôi thèm chút ánh sáng
Ánh sáng sáng soi cuộc đời
Ánh sáng đâu, phút vui đâu
Không thèm qua trong đời mù loà.

Trong ngày tôi đi nhưng như là đi trong đêm
Trời sinh đời tôi nhưng chưa hề cho tôi tên
Chưa hề cho thấy gió
Thấy bướm thấy hoa màu gì
Có thấy chi ánh chiêu dương
Hay là sương sương mờ chiều tà.

Ôi nào còn gì đâu giữa cuộc đời lạnh lùng tiếng đàn buồn não nùng
Ôi chỉ còn mình tôi bán hồn mình lòng mình cho người bằng bạc tiền
Nhịp nhàng bàn chân bước có tiếng người đi đến
Người dừng lại giây phút hãy giúp tôi đời sống.

Đời mù loà tăm tối sống dưới trời tươi sáng
Đời mơ nhiều quá niềm vui chẳng thấy
Không cho tôi nhìn một lần
Chỉ đành lòng ôm kín bóng tối và hoang vắng.

Dù nụ cười khô héo cũng có khi thành tiếng
Là một lần ai đến đã giúp tình thương mến
Đàn ơi đàn hỡi đàn lên ngàn tiếng
Cho tôi vui cùng cuộc đời.

Nhưng niềm vui mong manh không nằm yên trong tay
Chuỗi ngày đầy chua cay chất tràn lên đôi vai
Đi vào trong bóng tối chiếc bóng cô đơn lạnh lùng xót xa
Thay bước chông gai tôi lần đi trên đời đường dài
Tiếng đàn càng âm u đưa vào trong thiên thu
Niềm riêng là câu ca trên bờ đôi môi khô
Tôi đã gánh hết giữa kiếp sống nhân gian đọa đầy.
Những đớn đau, những xót xa
Thương giùm tôi ôi đời mù lòa …»
( Hoàng Thi Thơ, 1928 – 2001)
Thế mà, ở trên cõi đời nầy vẫn có kẻ : 
Thà cho trước mắt mù mù,
Chẳng thà ngồI thấy kẻ thù quân thân.
Thà cho trước mắt vô nhân,
Chẳng thà ngồI ngó sinh dân nghiêng nghèo.
Thà cho trước mắt vắng hiu,
Chẳng thà thấy cảnh trời chiều phâm xâm.
Thà cho trước mắt tối hầm,
Chẳng thà thấy đất lục trầm can qua.
Dù đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình.

Đọc đoạn thơ mộc mạc đanh thép trên, là người việt nam, ai không biết xuất xứ của nó ? Đó là lời nhân vật chính Kỳ Nhân Sư trong truyện Ngư Tiều Vấn Đáp của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu.

Ngoài ra còn một nhân vật chính khác cũng của cụ mà từ thành phố đến thôn quê, từ học giả chí bần cố nông, người người đều quen thuộc, đó là Lục Vân Tiên, trong truyện Lục Vân Tiên.

Không phải ngẫu nhiên mà trong các tác phẩm của cụ Đồ Chiểu có đến hai nhân vật mù, hiện thân của tác giả. Cái mù của Lục Vân Tiên là do tai nạn, nguyên nhân là chàng khóc thương Mẹ quá nhiều mới
ra nông nỗi. Còn cái mù của Kỳ Nhân Sư, trái lại :

Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu,
Xông hai con mắt bỏ liều cho đui.

Thái độ phản kháng tiêu cực nhưng quyết liệt của Kỳ nhân Sư trước bọn xâm lăng Tây Liêu cũng là thái độ của Nguyễn Đình Chiểu – và của Nguyễn Khuyến – đối với bọn thực dân  » đạo đi trước, cướp
nước theo sau  » phú lăng sa.

Nguyễn Đình Chiểu, qua hình ảnh của Kỳ Nhân Sư, quan niệm : 

Gặp cơn trời tối thà đui,
Khỏi gai con mắt lại nuôi đặng lòng. 
Và Nguyễn Đình Chiểu trong thực tế, chủ trương : 

Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương ! 
Vì mù loà, cụ Đồ Chiểu – và Tam Nguyên Yên Đỗ – không thể cầm gươm đâm giặc, diệt nòi phản dân hại nước, ông đã :

 » … không than mây oán gió, không vẽ thiên đường bằng ảo giác mượn vay  » mà  » … tay nắm chặt bàn tay, mài bút ( sắt ) xuyên tim nòi phản bội « .

Mù như hai cụ họ Nguyễn thật là đáng ngại, đáng phục ( cả với kẻ thù xâm lược và tay sai ) hơn những người mắt sáng muôn phần.

Đứng trên phương diện chiến tranh xâm lược, lối phản kháng, đối lập tiêu cực kiểu Đồ Chiểu và Yên Đỗ đáng sợ gấp trăm lần lối chống đối bằng bạo lực. Không dám cho bạo lực kém hữu ích – quân đội
quan trọng lắm chứ – nhưng bạo lực chỉ diệt được phần xác – bạo lực nhất thời chiếm được đất và, trong một khoảng thời gian nào đó, có thể thay tên đổi họ, ngấm ngầm đồng hoá cái nầy cái nọ – còn
chữ nghĩa phá tan tất cả : Tinh thần, nhất là tinh thần, và đôi khi phần xác cũng tiêu luôn. Khổng Minh chọc chết Chu Du bằng ba tấc lưỡi. Roger Salengro, dân biểu xã hội Pháp, đã tự hũy mình vì
một bài báo. Nixon mất chức tổng thống nước Mỹ vì cuộc điều tra vụ Watergate. Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ nguyên nhân chính vì những buổi đàm phán tại Paris năm 1973. CHXHCN Việt Nam bị cô lập, ngắc
ngoải non hai mươi năm sau 1975, một phần cũng vì tiếng nói của các thuyền nhân.

Mù như cụ Nguyễn Đình Chiểu, như cụ Nguyễn Khuyến là một sự bảo vệ đạo đức, lý tưởng, tiết tháo ; một biểu hiện căm ghét, bất hợp tác với kẻ thù của cả dân tộc ; một sự phê phán gay gắt. Mù nhưng
còn hơn sáng. Sáng mà hại dân hại nước, tham quyền cố vị đến mất nhân phẩm như Tôn Thọ Tường thời thực dân Pháp, như tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ thời đế quốc Mỹ và như những gì diễn
ra sau đó… 

Sáng chi nhân phẩm bỏ đi,
Thảo ngay chẳng biết lỗi nghì thiên luân. 

Chú thích
(1) Ivan Petrovitch Pavlov ( 1849 – 1936 ) : Bác học Nga. Trong những thí nghiệm về phản xạ hữu kiện, Pavlov đã làm cho con chó chảy nước miếng bằng tiếng chuông mà không cần thịt làm vật kích
thích. Dựa trên thí nghiệm đó, cộng sản đi đến chủ trương rằng người ta cũng có thể tập cho con người những phản xạ hữu kiện giống như con chó của Pavlov.

(Còn tiếp)

Những Con Mắt Trần Gian
6. Mắt Viễn Thị, Loạn Thị


Trước khi bước sang phần mắt mù và mắt không ngươi, trọng tâm của bài phiếm luận nầy, chúng ta cũng nên chấm phá sơ qua những con mắt bệnh phổ thông trên cõi ta bà nầy hầu tránh chuyện riêng tây
thiên vị. Trên kia chúng ta có nhắc tới cặp mắt nháy không ngừng nghỉ của tông tông François Mittérand, nay hãy cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân.

Tông tông Mittérand nháy liên tục là do mắt ông bị lông cặm hay quặm. Mắt lông cặm là mắt có lông nheo mọc ngược đâm vào tròng mắt, do bệnh đau mắt hột sinh ra. Nguyên do tạo ra bệnh nầy không
nằm trong khả năng của người viết, người viết chỉ xin mạo muội bàn sơ cái tác động của nó thôi. Ai mắc phải trường hợp cặm mới cảm thông, chia sớt được nỗi sót, niềm đau cũng như cái ngứa, cái
khó chịu gây nên bởi những sợi lông nheo « phản động » đó. Oái ăm nhất là cái ngứa từ những sợi lông nheo mới nhú, chĩa vào hai khoé mắt. Xưa, cạnh nhà tôi có một bà lão tên Minh bị chứng lông cặm
nầy, em gái tôi thường qua nhổ dùm bà, nhưng nhổ sợi nầy thì vài hôm sau sợi khác lại nhú ra. Sau đó bà bị mù, nay đã qua đời.

Loạn thị là một loại mắt kỳ khôi, tiếng Pháp gọi là Daltonisme. Người bị bệnh nầy nhìn màu xanh ra màu đỏ. Lái xe mà vướng bệnh nầy thì làm sao hè?

Kế đến là cặp mắt cận thị (thấy gần mà chẳng thấy xa) và cặp mắt viễn thị (thấy xa mà chẳng thấy gần). Trên mặt nổi của sự kiện, hai bộ mắt nầy đã được con người – đúng hơn là giới thương mại –
thẩm mỹ hoá bằng đủ loại kính, đủ loại gọng. Ngoài ra còn một loại Verre de Contact, đại khái ta có thể hiểu nó là một mảnh thủy tinh nhỏ độ đầu ngón tay vô danh. Người bị cận thị hay viễn thị –
nhất là phái đẹp, thay vì đeo kính có gọng, có tác động làm húp mắt – mua bỏ vào tròng mắt, lúc cần có thể lấy ra dễ dàng.

Trong cuốn « 40 Năm Nói Láo », nhà văn Vũ Bằng có kể câu chuyện về một nhân vật trong làng báo Việt Nam:

«Tạ Đình Bính có cái tính kỳ lạ là thấy ai có cái gì, dù xấu dù tốt, cũng nhận luôn là mình cũng có thứ ấy như ai. Một hôm TchyA (nhà văn Đái Đức Tuấn) nói chuyện về cái tật cận thị của ông
Phạm Quỳnh, Bính đang hút, bỏ luôn dọc tẩu, ngồi phắt dậy và chỉ vào mắt mình, nhận anh cũng cận thị. Một vài tháng trôi qua. Cũng nằm bên bàn đèn, có người nói rằng cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
viễn thị, tìm mua mãi một cái kính vừa mắt mà không sao mua được. Đang đeo kính, Bính bỏ ra đặt xuống bàn, nói:

– Bỏ cha chưa, các người thông thái có nhiều điểm giống nhau kỳ lạ: Tớ cũng viễn thị!
 
Bất ngờ trong buổi họp mặt lần nầy lại có TchyA. Anh nầy, không gượng nhẹ gì hết, lật tẩy luôn Tạ Đình Bính :
 
-Tao chịu mày quá. Ba xạo đến như mày là vô địch. Tao còn nhớ cách đây không lâu, mày bảo mày bị cận thị như Phạm Quỳnh; hôm nay mày thấy Nguyễn Văn Ngọc viễn thị, mày lại khoe mày viễn thị.
Thế thì mắt mày là cái thứ gì ?

Giả thử ở vào trường hợp một người khác bị bắt quả tang nói láo như thế, ít nhất cũng cuống lên, ấp a ấp úng một lúc rồi muốn trả lời ra sao mới trả lời được. Đối với Tạ Đình Bính thì không,
tuyệt đối không. TchyA chưa chửi hết câu thì Bính đáp liền, không cần nghĩ ngợi, tuồng như cái tật nói phét, nói dóc, ngụy biện lúc nào cũng nằm sẵn ở trong máu anh rồi :

– Ồ, thế thì mày không biết tao rồi. Mắt nầy tao cận thị, còn mắt bên nầy thì viễn thị. Tao nói dóc thì tao không trông thấy mày.

Rồi sợ anh em chưa đủ tin, Bính bình luận tiếp với một sự vững tin ghê gớm: Thực quả, tao chưa thấy mấy trường hợp một mắt viễn thị, một mắt cận thị như thế bao giờ. Chính tao cũng lạ cho
tao, nhưng sau tao nghĩ có lẽ đây là một dị tướng, chớ không phải là chuyện đùa
.».

Mẫu chuyện về ông Tạ Đình Bính làm tôi nhớ đến huyền thoại cận đại nầy:

• Mấy bửa trước khi Liên Sô và Đông Đức bất thình lình cho xây bức tường ô nhục ngăn đôi Bá Linh thành Tây Bá Linh và Đông Bá Linh (13/08/1961), người ta thấy trước một cửa hiệu nhãn khoa, phiá
Đông Bá Linh, tấm bảng như sau:

Quí vị nào cận thị xin đến tiệm kính đầu đường.
Quí vị nào viễn thị xin hãy theo tôi.

Cặp mắt kính cận và viễn thị nói riêng là một phát minh nhất cử lưỡng tiện, nói rõ là không những nó bình thường hoá con mắt bệnh mà còn trang điểm cho khuôn mặt nữa. Chả thế mà đi một vòng tiệm
Optique 2000, Générale Optique, Frères Lissac … (chuyên bán kính ) ở Pháp, tính ra cũng có đến hàng ngàn kiểu gọng, to nhỏ, vuông tròn, méo bầu … Nhưng than ôi, ông tổ cuộc phát minh nầy, dầu đeo
thật nhiều cặp kính cùng một lúc cũng không tài nào  » nhìn thấy  » trước được ở cuối thế kỷ 20 có một cái hoạ chết người nguyên do phát xuất từ đứa con đẻ của ông. Đó là trường hợp điển hình bên
xứ Chùa Tháp, Khmer XHCN của Polpot và Ieng Sary. Theo lệnh Polpot, Ieng đã giải toả thành thị, đẩy dân xuống ruộng, bỏ luật lưu thông, hệ thống tiền tệ, học đường và thủ tiêu tất cả những ai
chống đối, đặc biệt trự nào mang kính trắng trên mặt, để tạo dựng một lớp người mới, một lớp vật mới thì đúng hơn, vì, theo Duy Vật Biện Chứng Pháp, con người chỉ là một khối vật chất, chỉ là
chuổi phản ứng tự động máy móc, một con chó của Pavlov ( 1 ). Cho nên tri thức là một xa xí phẩm cần phải tiêu diệt. Và một sớm một chiều, trên xứ Chùa Tháp, cặp kính trắng bỗng trở thành biểu
tượng cho giai cấp trí thức, mà đã là trí thức thì không thể là con vật và đã không phải là con vật thì nhân danh nhân đạo, nhân danh tiền đồ Thế Giới Đại Đồng Vô Sản … Xuất, Ieng Sary phải đưa
họ sang thế giới khác ! Chuyện xứ Chùa Tháp trong chế độ XHCN của Polpot, dưới mắt của một số người, đã qua từ lâu, không nên nhắc lại, hơn nữa vụ án về Khmer Đỏ đang ngủng ngẳng tới hồi chung
cuộc ; nhưng đảo mắt nhìn chung quanh xứ Chùa Tháp, mặc cho ai khua môi múa mép định hướng nầy, định hướng khác ; mặc cho ai ảo thuật mà mắt thiên hạ : chuyện tiêu hũy sách báo vẫn còn đó, lịch
sử vẫn còn đó, nỗi đau, nỗi hận vẫn còn đó … Nháy mắt một cái vừa tròn 30 năm ! Thôi oán thôi hờn nhưng không thể thôi nhớ.

Mất ánh sáng của đôi mắt đối với con người xương thịt là nỗi khổ đau trọn vẹn, là mất tất cả ý sống trên đời. Năm tôi 15 tuổi, tưởng đã bị mù, may nhờ bác Cầm, mẹ chị Lê Thị Bạch Yến, ròng rã hai
tháng trời, dùng thịt chân cua đồng nhúng thuốc gia truyền rà cho mới khỏi. Giá trị của đôi mắt lành lẻ, nỗi đau cùng cực của một kẻ chẳng may bị mù đã được sách vở ghi lại quá nhiều. Ở đây tôi
chỉ xin mượn khúc hát Người Nghệ Sĩ Mù của cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ làm căn cứ cho phần viết tiếp:

«Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca
Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa
Tôi thèm chút ánh sáng
Ánh sáng sáng soi cuộc đời
Ánh sáng đâu, phút vui đâu
Không thèm qua trong đời mù loà.

Trong ngày tôi đi nhưng như là đi trong đêm
Trời sinh đời tôi nhưng chưa hề cho tôi tên
Chưa hề cho thấy gió
Thấy bướm thấy hoa màu gì
Có thấy chi ánh chiêu dương
Hay là sương sương mờ chiều tà.

Ôi nào còn gì đâu giữa cuộc đời lạnh lùng tiếng đàn buồn não nùng
Ôi chỉ còn mình tôi bán hồn mình lòng mình cho người bằng bạc tiền
Nhịp nhàng bàn chân bước có tiếng người đi đến
Người dừng lại giây phút hãy giúp tôi đời sống.

Đời mù loà tăm tối sống dưới trời tươi sáng
Đời mơ nhiều quá niềm vui chẳng thấy
Không cho tôi nhìn một lần
Chỉ đành lòng ôm kín bóng tối và hoang vắng.

Dù nụ cười khô héo cũng có khi thành tiếng
Là một lần ai đến đã giúp tình thương mến
Đàn ơi đàn hỡi đàn lên ngàn tiếng
Cho tôi vui cùng cuộc đời.

Nhưng niềm vui mong manh không nằm yên trong tay
Chuỗi ngày đầy chua cay chất tràn lên đôi vai
Đi vào trong bóng tối chiếc bóng cô đơn lạnh lùng xót xa
Thay bước chông gai tôi lần đi trên đời đường dài
Tiếng đàn càng âm u đưa vào trong thiên thu
Niềm riêng là câu ca trên bờ đôi môi khô
Tôi đã gánh hết giữa kiếp sống nhân gian đọa đầy.
Những đớn đau, những xót xa
Thương giùm tôi ôi đời mù lòa …»
(Hoàng Thi Thơ, 1928 – 2001 ) 
Thế mà, ở trên cõi đời nầy vẫn có kẻ : 

Thà cho trước mắt mù mù,
Chẳng thà ngồI thấy kẻ thù quân thân.
Thà cho trước mắt vô nhân,
Chẳng thà ngồI ngó sinh dân nghiêng nghèo.
Thà cho trước mắt vắng hiu,
Chẳng thà thấy cảnh trời chiều phâm xâm.
Thà cho trước mắt tối hầm,
Chẳng thà thấy đất lục trầm can qua.
Dù đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình. 
Đọc đoạn thơ mộc mạc đanh thép trên, là người việt nam, ai không biết xuất xứ của nó ? Đó là lời nhân vật chính Kỳ Nhân Sư trong truyện Ngư Tiều Vấn Đáp của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu.

Ngoài ra còn một nhân vật chính khác cũng của cụ mà từ thành phố đến thôn quê, từ học giả chí bần cố nông, người người đều quen thuộc, đó là Lục Vân Tiên, trong truyện Lục Vân Tiên.

Không phải ngẫu nhiên mà trong các tác phẩm của cụ Đồ Chiểu có đến hai nhân vật mù, hiện thân của tác giả. Cái mù của Lục Vân Tiên là do tai nạn, nguyên nhân là chàng khóc thương Mẹ quá nhiều mới
ra nông nỗi. Còn cái mù của Kỳ Nhân Sư, trái lại :

Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu,
Xông hai con mắt bỏ liều cho đui. 
Thái độ phản kháng tiêu cực nhưng quyết liệt của Kỳ nhân Sư trước bọn xâm lăng Tây Liêu cũng là thái độ của Nguyễn Đình Chiểu – và của Nguyễn Khuyến – đối với bọn thực dân  » đạo đi trước, cướp
nước theo sau  » phú lăng sa.

Nguyễn Đình Chiểu, qua hình ảnh của Kỳ Nhân Sư, quan niệm : 

Gặp cơn trời tối thà đui,
Khỏi gai con mắt lại nuôi đặng lòng. 
Và Nguyễn Đình Chiểu trong thực tế, chủ trương : 

Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương ! 
Vì mù loà, cụ Đồ Chiểu – và Tam Nguyên Yên Đỗ – không thể cầm gươm đâm giặc, diệt nòi phản dân hại nước, ông đã :

 » … không than mây oán gió, không vẽ thiên đường bằng ảo giác mượn vay  » mà  » … tay nắm chặt bàn tay, mài bút (sắt) xuyên tim nòi phản bội « .

Mù như hai cụ họ Nguyễn thật là đáng ngại, đáng phục (cả với kẻ thù xâm lược và tay sai) hơn những người mắt sáng muôn phần.

Đứng trên phương diện chiến tranh xâm lược, lối phản kháng, đối lập tiêu cực kiểu Đồ Chiểu và Yên Đỗ đáng sợ gấp trăm lần lối chống đối bằng bạo lực. Không dám cho bạo lực kém hữu ích – quân đội
quan trọng lắm chứ – nhưng bạo lực chỉ diệt được phần xác – bạo lực nhất thời chiếm được đất và, trong một khoảng thời gian nào đó, có thể thay tên đổi họ, ngấm ngầm đồng hoá cái nầy cái nọ – còn
chữ nghĩa phá tan tất cả : Tinh thần, nhất là tinh thần, và đôi khi phần xác cũng tiêu luôn. Khổng Minh chọc chết Chu Du bằng ba tấc lưỡi. Roger Salengro, dân biểu xã hội Pháp, đã tự hũy mình vì
một bài báo. Nixon mất chức tổng thống nước Mỹ vì cuộc điều tra vụ Watergate. Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ nguyên nhân chính vì những buổi đàm phán tại Paris năm 1973. CHXHCN Việt Nam bị cô lập, ngắc
ngoải non hai mươi năm sau 1975, một phần cũng vì tiếng nói của các thuyền nhân.

Mù như cụ Nguyễn Đình Chiểu, như cụ Nguyễn Khuyến là một sự bảo vệ đạo đức, lý tưởng, tiết tháo ; một biểu hiện căm ghét, bất hợp tác với kẻ thù của cả dân tộc ; một sự phê phán gay gắt. Mù nhưng
còn hơn sáng. Sáng mà hại dân hại nước, tham quyền cố vị đến mất nhân phẩm như Tôn Thọ Tường thời thực dân Pháp, như tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ thời đế quốc Mỹ và như những gì diễn
ra sau đó…

Sáng chi nhân phẩm bỏ đi,
Thảo ngay chẳng biết lỗi nghì thiên luân.


Chú thích

(1) Ivan Petrovitch Pavlov ( 1849 – 1936 ) : Bác học Nga. Trong những thí nghiệm về phản xạ hữu kiện, Pavlov đã làm cho con chó chảy nước miếng bằng tiếng chuông mà không cần thịt làm vật kích
thích. Dựa trên thí nghiệm đó, cộng sản đi đến chủ trương rằng người ta cũng có thể tập cho con người những phản xạ hữu kiện giống như con chó của Pavlov.

Còn tiếp

Người gửi: hanlenhan
Người đăng: TVMT

Những Con Mắt Trần Gian
7.


Đọc Kim Vân Kiều của cụ Nguyễn Du, ở đoạn tả hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, nếu để ý nhận xét, ta thấy ngay sự quan tâm đến cặp mắt của bậc thi tài quán triệt nầy. Tả dung nhan Thúy Vân, Tố
Như hạ bút:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Ta không thấy chữ Mắt, chỉ thấy bộ mặt tròn trịa và cặp lông mày « phì nhiêu ». Còn vẽ Thúy Kiều, tiên sinh nắn nót:

Làn thu thủy, nét xuân sơn

thì mắt và mày đủ bộ.

Như vậy chẳng lẽ Thúy Vân không có mắt? Không! Chứng cớ là Thúy Vân vẫn du xuân, tảo mộ, vẫn thấy Kim Trọng:

Phong lưu tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

Và khi:

Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn liếc theo.

Thúy vân có mắt là điều đương nhiên rồi. Không những có mắt mà là mắt đẹp nữa là đàng khác ; chẳng mắt bồ câu thì cũng kiểu mắt lồ lộ của ca sĩ H. L. hay bình dân hơn, mắt lá răm như nữ nghệ sĩ
chèo M.T.H. Nhưng, nói như tác giả Đọc Lại Truyện Kiều (Vũ Hạnh), đôi mắt của nàng Vân chỉ là một bộ phận làm đầy đủ lệ bộ của một khuôn mặt thôi. Thúy Vân có nhìn thấy Kim Trọng thật, song nàng
chỉ thấy bằng con mắt của người, của gia đình, xã hội, luân lý. Nói khác là gia đình, xã hội, luân lý, trật tự đã nhìn thay cho Thúy Vân và không hề « biết » có nàng, có phản ứng của nàng.

Chính vì thế mà nàng đã nực cười nhìn thấy Kiều:

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa

Hay sau cơn gia biến thảm thương, ngủ vùi một giấc, Vân choàng tỉnh dậy thấy chị ngồi khóc bên đèn lụn bấc một mình, buột miệng hỏi rằng :

Cớ sao ngồi nhẩn tàn canh?

Hoặc sau khi sống 15 năm duyên nợ với Kim Trọng, ngày tái ngộ cùng Kiều nàng đã nói về tấm lòng yêu Kiều của kẻ chung chăn gối với mình :

Những là nay ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.

Thật là lạnh lẻo, thản nhiên, tưởng như Vân không còn giữ cho mình chút tự ái nào cả.

Ai dám bảo cặp mắt chỉ dùng để nhìn, để thấy? Theo ý kẻ nầy thì ngoài công dụng nhìn, liếc, ngó, háy, nguýt, thấy, ngắm, dòm …, và để khóc ra:

Cứ tháng năm qua Mẹ đếm sầu
Từ ngày con vắng đã bao lâu
Trong lòng nguyên vẹn vết đau nhức
Mắt Mẹ chưa khô những giọt sầu !
( Giọt Sầu Trên Mắt Mẹ, Hoài Nam)

mắt còn để cười :

Ai muốn hiểu ta hãy nhìn trong ánh mắt,
Đôi mắt việt nam, đôi mắt hay cười !
Và mắt người lạ lắm, cứ long lanh,
Nụ cười trên môi, nụ cười trong mắt.
( Đôi Mắt Việt Nam, Bùi Minh Quốc )

Ðôi mắt có tên tinh nghịch rồi
Nhìn yêu thành ghét tự nhiên thôi
Trái tim không hiểu ai chờ đợi
Ðôi mắt nhởn nhơ …mắt biết cười !
( Đôi Mắt Tinh Nghịch, Thùy Áo Đỏ )

để nói :

Anh yêu em bên tình yêu ánh mắt
Gặp mĩm cười mà chẳng nói nên câu.
Cầm tay em, anh đứng lặng hồi lâu,
Đôi môi thắm dâng nụ cười trọn vẹn.
( Mộng Tuổi Thơ, Hoàng Hội Tao Nhân )
để khám phá :

«Anh ấy luôn mở cửa sổ ra để bạn có thể nhìn thấu trái tim. Một ánh nhìn trìu mến dõi theo bạn, lúc kín đáo, lúc lộ liễu sẽ thể hiện cho bạn biết: ‘Anh đang chú ý đến em’. Ngay cả ánh nhìn lúng
túng, cái chớp mắt bối rối khi bị ( hoặc cố tình để bị ) bạn bắt gặp cũng khiến anh ấy trở nên dễ thương và thật thà hơn.» ( 10 bước chinh phục …, VN ).

Có lẽ Thúy Vân đã nhường cặp mắt cho Thúy Kiều cũng như từ non thế kỷ đến nay ( và chẳng biết đến bao giờ ) các nhà lãnh đạo luân phiên nhau nhường cặp mắt cho ngoại bang ; nói thế bởi cái đặc
tánh  » bảo hoàng hơn vua  » vốn nằm trong máu của con dân vài nước còn sót lại đó đây, do đó mới có chuyện một nhúm người vẫn  » kiên cường  » nhắm mắt ôm ghì một ảo tưởng, cúi đầu suy tôn dăm thần
tượng đã bị chính nơi khai sinh ra nó bỏ vô sọt rác từ bảy đời, tám hoánh. Và tôi thấy quanh tôi, đám bạn bè đồng bào đồng đạo cùng trang lứa, bằng cấp đầy mình, thay vì phóng tầm mắt theo hướng
chỉ của ngón tay trỏ, đã hãnh diện dán chặt cặp mắt – còn rất tốt – vào ngón tay, để :

Quẳng đi cái có khổ vì cái không
(trong Hoa Địa Ngục, Nguyễn Chí Thiện )

Không như cái nhìn của các ngài  » tôi tớ nhân dân  » đã và đang gây nên bao nhiêu tang thương tan nát cho bao nhiêu gia đình … người khác ở đây đó. Bạo gan nói thế vì dân tộc ta có quá nhiều sứ
giả kiên trung cho những tư tưởng, ý hệ đến từ nước ngoài. Người việt sống đều cật lực bảo vệ, quảng bá những điều mình học mót được từ phương xa, tinh tướng dè bĩu, quy chụp, thậm chí tiêu diệt
những đồng bào khác cũng học mót nhưng không giống điều mình học mót, cho đó là tà thư ngoại đạo, là phản nầy phản nọ. Người việt chết lại được người việt sống cầu nguyện cho linh hồn sớm phiêu
diêu về đâu đâu khác, chứ không muốn cho linh hồn, nếu có, hoà vào sông vào núi Việt, trong khi ai ai cũng biết rằng Nước nầy, Cõi kia chính là Trái Đất nầy chứ không thể là nơi nào khác:

1/ Bác cả tôi qua đời và được lên gặp ai đó trên cõi nào đó như ước nguyện trong lời di chúc. Thời gian đầu trên cõi vô ưu, bác an nhiên tự tại, khi ngâm lại thơ bác, lúc nghêu ngao mấy bản nhạc
ca tụng bác, có hôm lại đánh cờ … một mình.

Bữa kia, bác tôi trông thấy trên một đám mây ngũ sắc gần chục tiên nữ mơn mởn hở hang ngồi quây quần vui vẻ lắm. Tức thời bác tôi vội đâm đơn xin được chuyển lên đó, vô phúc làm sao bác lại được
chuyển xuống điạ ngục. Thôi thì qủy đầu trâu mặt ngựa, nanh sừng ghê gớm, đứa ngắt đứa véo, đứa thọc đứa đâm… mấy đứa đun sôi chảo dầu to tướng chờ chiên bác.

Hoảng hồn bác hét lên:

– Tôi đâu có xin chuyển đến nơi đây. Chắc chắn phải có sự lầm lẫn về hành chánh rồi các ngài ơi !
– Ủa, quỷ chúa ngạc nhiên. Ông chẳng đã có ký một tờ đơn xin chuyển hộ khẩu sao?
– Đúng vậy, nhưng là để xin được chuyển lên đám mây có các tiên nữ kià !
– Thì đúng quá rồi. Đám mây kia là Bản Doanh Cục Tuyên Truyền của Địa Ngục đó, ông già ơi !

2/ Dưới thời Andropov, một phi hành gia Liên Sô được đặc biệt chọn cho phi vụ dài hạn thám thính vũ trụ.

Mấy năm sau anh trở lại mặt đất nhằm thời Gorbatchev. Anh trở thành anh hùng dân tộc, ôm cả đống bằng khen, được TBT Gorbatchev và toàn thể ủy viên Bộ Chính Trị long trọng đón tiếp trong điện Cẩm
Linh.

Trong buổi tiệc, Gotbatchev hỏi nhỏ phi hành gia:

– Nè đồng chí. Hiện nay, trên cõi đời nầy không ai ngoài đồng chí có đủ thẩm quyền trả lời cho sự bí ẩn nầy: Cứ nói thật. Đồng chí có gặp Thượng Đế và cõi Thiên Đường không?

– Thưa đồng chí TBT. Có, tôi có gặp Thượng Đế, Đức Giê-su trong cõi Thiên Đường trên không phận Palestine và Đức Thích Ca ở cõi Niết Bàn trên không phận Tích Lan …

– Tôi biết chắc là như thế. Gorbatchev chép miệng thở dài: Thật là kinh khủng. Đồng chí phải thề độc với tôi là không tiết lộ chuyện nầy với bất cứ ai khác !

Phi hành gia hứa giữ kín chuyện động trời nầy. Sau đó, anh được mọi quốc trưởng trên thế giới thỉnh mời qua chơi xứ họ. Đức Giáo Hoàng cũng dành một buổi trà nước tay đôi với anh. Đức Giáo Hoàng
hỏi nhỏ anh:

– Con yêu quí. Con là người đầu tiên được du lịch vũ trụ lâu ngày nhất. Cha chỉ cần hỏi con duy nhất điều nầy: Con có gặp Thượng Đế và cảnh Thiên Đường không?

Phi hành gia trực nhớ lời thề độc với Gorbatchev bèn trả lời:

– Thưa Đức Thánh Cha, con không hề thấy một dấu tích gì chứng minh có Thượng Đế và cảnh Thiên Đường …

– Ta biết chắc là như thế. Đức Giáo Hoàng chép miệng thở dài: Thật là kinh khủng. Con phải thề độc với ta là không tiết lộ chuyện nầy với bất cứ ai khác!

không giống cái nhìn của đám bạn bè  » trí thức  » nói trên hàm chứa một tinh thần èo uột. Nói èo uột là vì người ta chỉ bú mớm những đứa trẻ – bình thường – lên hai, lên ba cùng lắm là lên năm,
chứ đã 25, 30 thậm chí 50 mà còn phải mớm cho ăn từng  » thìa cơm  » thì nhất định đương sự phải mang trong người một căn bệnh, nhẹ là bệnh lười suy nghĩ, bệnh ỷ lại, bệnh  » tận tín thư  » ; nặng
thì bệnh si, bệnh óc … Tội nghiệp cho cha mẹ, đất nước nào có những đứa con như thế ;

cái nhìn của Thúy Vân hiền lành, toát lộ một vẻ cam chịu đáng thương, mà cũng đáng ghét vì nàng quá rập khuôn, quá thụ động. Sự thụ động, sự rập khuôn của nàng tuy không di hại cho ai nhưng khiến
ta tưởng lầm tâm hồn nàng vốn là một chất bột đã được rây, lọc kỹ càng. Sự tuân phục của nàng có thể làm cho ta cảm động, nhưng chưa đủ cho ta kính yêu, cũng như có thể làm cho ta yên lòng nhưng
không làm cho ta gần gũi.

Phần tiếp = Đôi mắt của Thúy Kiều

Người gửi: hanlenhan
Người đăng: TVMT
Người sửa: TVMT;

Những Con Mắt Trần Gian
8. Đôi Mắt Thúy Kiều


Đã nói qua cặp mắt của Thúy Vân, ta không thể không bàn tới cặp mắt của Thúy Kiều : 

Làn thu thủy, nét xuân sơn 

Chỉ có 6 chữ gọn gàng, Tố Như tiên sinh đã vẽ ra trước mắt, trong tâm chúng ta một đôi mắt trong, đẹp. Trong hơn sóng nước mùa thu. Đẹp hơn dáng núi mùa xuân. Điểm quan tâm của chúng ta không nằm
Trên cặp mắt của Thúy Kiều, mà Trong cặp mắt của nàng. Trong mắt Kiều có gì đặc biệt? Có một nhãn lực tuyệt vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng chừng soi
thấu vào tận đáy mồ hoang để thấy nỗi niềm cô độc xót xa của một kiếp người với ta, giữa cái đã qua và cái sẽ đến : 

Thấy người nằm đó, biết sau thế nào ? 
Cặp mắt đó đã gọi hồn ma Đạm Tiên dậy kết tình chị em : 

Hữu tình ta lại gặp ta,
Chẳng nề u hiển mới là chị em. 
Cặp mắt đó đã khám phá tình yêu, chọn lấy con đường không chịu hướng những tia nhìn về các khuôn mòn, lối cũ.

Tóm lại cặp mắt Thúy Kiều là cặp mắt linh động – muốn gọi là hai viên ngọc quí cũng không ngoa – biết nhìn, biết khóc, biết tiếp thu, biết phản ứng, biết vâng lời, biết từ chối, biết lựa chọn,
biết quyết định, biết cười …

Tôi ca tụng mắt của Kiều như thế hẳn có người lắt léo hỏi lại: Kiều tài mạo tuyệt trần như thế sao lại làm … điếm? Ai biết! Để hỏi ông này: Tố như tiên sinh – thác lời thầy bói – có viết về
Kiều : 

Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. 
nhưng (ổng cũng đâu biết nên) không nói rõ những « phá tướng » của Kiều. Vậy ta có thể dẫn câu chuyện dưới đây làm một trong những « phá tướng » của nàng:

*Vào cuối đời nhà Thanh, triều vua Quang Tự tại Bắc Kinh, nơi nhà thanh lâu nổi tiếng đương thời tục gọi là Bát Đại Hồ Đồng, có một nàng danh kỹ tên Hạnh Xuân. Nếu ai không biết nàng là kỹ nữ mà
trông thể thái diện mạo của nàng thì đều phải nghĩ rằng nàng là một quí phu nhân, vừa đẹp, vừa tài mạo đoan trang, dáng đi, lúc nói, lúc cười; khi nằm, khi ngồi rất nhã chẳng bợn chút thô tục,
cũng không có điểm nào yêu quái tiện dâm. Thế mà sự thật rành rành, Hạnh Xuân hiện đang là một ca kỹ, chỉ khác ở chỗ nàng là thứ ca kỹ nổi danh, khắp Trung Quốc các đạt quan, quí nhân đều biết
tiếng, đều mong được gần gũi nàng cho thoả chí.

Một hôm trong đám khách, có phú thương họ Hạ muốn lấy Hạnh Xuân làm thiếp. Chuyện tiền chuộc dù phải trả trăm lạng vàng chẳng thành vấn đề, họ Hạ chỉ chú trọng một điều duy nhất: Liệu Hạnh Xuân
có sinh con không? Éo le một nỗi là họ Hạ lại không muốn Hạnh Xuân sinh con bởi lẽ ông đã có vợ và hai thiếp rồi, con cái đùm đề. Thêm nữa họ Hạ quá yêu vẻ đẹp của Hạnh Xuân. Ông muốn nàng sẽ mãi
như bức tượng bằng ngọc, nếu sinh con nàng tất sề ra, xấu đi. Để giải quyết nỗi thắc mắc nầy ông bèn mời một vị túc nho họ Mạc đến Bát Đại Hồ Đồng dùng cơm luôn thể nhờ cậy chỉ giáo cái tướng
cách của Hạnh Xuân. Nàng được gọi tới bàn rượu. Mạc tiên sinh không hiểu rõ ẩn ý của lái buôn họ Hạ nên nghĩ rằng ông nầy muốn lấy Hạnh Xuân để có thêm con, nên sau khi quan sát Hạnh Xuân rồi,
ghé tai bạn bảo: « không nên lấy vì nàng vĩnh viễn không thể sinh con ».

Lái buôn họ Hạ hỏi: « Ngoài tướng sinh nở, Hạnh Xuân còn có điểm xấu nào nữa?

Mạc tiên sinh đáp: « Tướng cô ta cứ theo dung mạo bên ngoài thì phải thuộc hạng tam phẩm phu nhân, thế mà chẳng hiểu tại sao lại luân lạc vào đây sống đời ca kỹ? Vì tướng cách cô ta nhất định lấy
người chức tước, chứ không lấy phú thương đâu ».

Lời họ Mạc làm họ Hạ thắc mắc, ông năn nỉ bạn tìm cho ra cái phá tướng nào ghê gớm đến nỗi biến một phu nhân thành con điếm.

Từ bửa đó, Mạc tiên sinh năng lui tới Bát Đại Hồ Đồng.

Một hôm, ngồi nói chuyện vãn cùng Hạnh Xuân, tiên sinh liền hỏi thẳng vào đề cho nàng biết tướng cách của nàng giá đáng phu nhân sao lại lạc loài nơi thanh lâu đàn phách. Hạnh Xuân nói: « thuở nhỏ
cha mẹ xem số cho nàng, thầy số bảo tương lai nàng là người trong thanh lâu, phê vào lá số mấy chữ : 

Mỹ nhi vô tử, diễm nhi đa phu 

nghĩa là đẹp nhưng không con, tài sắc nhưng lắm chồng.

Mạc tiên sinh cố ý ngồi nói chuyện thật lâu với Hạnh Xuân, hy vọng phát hiện được phá tướng của nàng. Nhưng từ trưa đến quá chiều, tuyệt nhiên vẫn không thấy gì khác lạ cả.

Rời kỹ viện ra về, dọc đường họ Mạc chợt nhớ ra trong khoảng thời gian đàm thoại với Hạnh Xuân, mình là ông già ngoài năm mươi mà cũng chẳng phải chạy đi tiểu tiện lần nào, thế mà Hạnh Xuân mới
mười chín tuổi đầu lại phải cứ chốc chốc xin phép đi tới sáu, bảy lượt, vả lại lúc nầy nhằm mùa hè, thông thường người toát mồ hôi chứ đâu có cần tiểu tiện. Đúng rối, tướng mệnh học gọi là tiết
khí, một loại ám phá tướng.

Đến tối, Mạc tiên sinh vội vã tới kỹ viện tìm cô bạn đồng phòng với Hạnh Xuân tên Phi Phượng để hỏi xem hôm nay Hạnh Xuân có đau ốm gì không? Phi Phượng bảo không. Mạc tiên sinh thừa cơ nói luôn
thể tại sao buổi chiều Hạnh Xuân ngồi nói chuyện với ông mà lè tè chạy vào nhà cầu đến năm bảy lượt. Phi Phượng chỉ bưng miệng cười. Mạc tiên sinh cho biết sở dĩ ông ta đến đây hỏi lẩn thẩn như
thế là vì lý do liên quan đến vấn đề xem tướng số. Bấy giờ Phi Phượng tỏ vẻ ngạc nhiên: « Thôi chắc rồi, nếu vậy con Hạnh Xuân có phá tướng thật rồi. Tôi không hiểu tướng hay phá tướng là thế nào
nhưng tôi thấy con Xuân có cái bệnh kỳ lắm ». Phi Phượng chỉ nói tới đấy rồi im bặt.

Mạc tiên sinh hỏi: « Cô ta có bệnh về bài tiết thì nên tìm thầy thuốc chửa, khó gì đâu « . 

Phi Phượng cười đáp: « Nó đi chửa nhưng thầy thuốc bảo nó không phải bệnh, chỉ là thói quen, không dùng thuốc chửa được ».

Ngừng một lát, Phi Phượng tiếp: « Cái phá tướng ấy của con Hạnh Xuân không chỉ là đi tiểu tiện luôn luôn thôi đâu, mà còn …  » Phi Phượng lại không nói thêm.

Tuy nhiên Mạc tiên sinh cũng chẳng cần hỏi nữa, phá tướng của Hạnh Xuân, tuy ẩn bên trong, đã rõ ràng.

Trong tiết Thanh Minh, anh em Kiều đi tảo mộ, thấy một ngôi mả hoang. Và chỉ cần nghe Vương Quan nói mả ấy là mả Đạm Tiên, một ca nhi bạc phận, Kiều đã : 

Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài. 
Và tối về, Kiều lại : 

Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau nầy mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi.
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. 
Nỗi đa sầu đa cảm của Kiều có thể liệt vào loại Cô Âm Trầm Tinh hay Mãn Diện Sầu Dung như tích  » Nhân Diện Đào Hoa  » của thi sĩ Thôi Hộ và một cô gái đa sầu, lãng mạn vùng thôn giả : 

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong.
(Đề Tích Sở Kiến Xứ, Thôi Hộ)

(Hôm nay, năm ngoái, cửa cài,
Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi.
Mặt người chẳng biết đâu rồi,
Hoa đào còn đó vẫn cười gió xuân. )
(Đề Chỗ Đã Trông Thấy Năm Trước, Trần Trọng Kim) (1) 
hay tích về sủng phi Mai Anh (có đôi mắt rất buồn) của Đường Minh Hoàng, sau khi ông nầy gặp Dương Quí Phi, thì Mai Anh bị thất sủng và bị giam vào lãnh cung.

(Còn tiếp)
Chú thích

(1) Thôi Hộ là một thi sĩ đẹp trai, tính quả hợp, không hay chơi với ai. Một ngày thanh minh đi chơi một mình đến phía nam kinh thành, thấy một nhà có vườn đào nhièu hoa, mới gõ cửa xin nước
uống. một người con gái rất đẹp và nghiêm trang ra hỏi tên họ, rồi đem nước mời uống. Đến tiết Thanh Minh năm sau, Thôi Hộ lại đến nhà ấy, thấy cửa đóng, đề bài thơ nầy ở cánh cửa bên tả. Cách
mấy hôm lại đến chợt nghe tiếng khóc và có ông lão ra hỏi : Anh có phải là Thôi Hộ không ? Con gái tôi đọc bài thơ của anh rồi nhịn ăn mới chết. Thôi Hộ vào khấn, thì người con gái ấy sống lại,
bèn lấy làm vợ. Sau Thôi Hộ đỗ tiến sĩ về đời Trinh Nguyên, làm quan đến chức Lĩnh Nam tiết độ sứ. (theo sđd)

Những Con Mắt Trần Gian
9.


Nói đến cặp mắt, chúng ta thường liên tưởng tới đôi tròng thịt nằm trên khuôn diện mà ít lưu tâm tới cặp mắt nằm gọn gàng trên mười ngón tay của người mù. Nói cách khác, từ thế kỷ 20, đôi tay là
cặp mắt của người mù hay người khiếm thị. Nếu xưa cặp kính trắng đã không làm cho anh chàng mắt sáng nào đó biết đọc thì ngày nay hệ thống văn tự Braille (1) lại giúp cho người khiếm thị, bằng
vào mười ngón tay, đọc được lưu loát.

Từ sự kiện đọc bằng tay trên, chúng ta có thể khẳng định rằng cặp mắt trên khuôn mặt là cặp mắt để nhìn – đôi khi có nhìn mà không thấy, có thấy mà không biết – còn cặp mắt nằm trên đôi tay là
cặp mắt để biết.

Đôi mắt nằm trên đôi bàn tay, thật ra, chỉ là cách nói đơn giản để ý hội chứ chính ra là do đôi tay – khi rờ rờ mó mó chi đó – đánh”mật mã”lên cái đầu, cái đầu xào nấu sao đó mà người mù (hay
người mắt sáng nhưng nhắm tịt lại) diễn cảm giác thu nhận thành lời. Nói vậy là vì khi tắt đèn tối thui thì ai mù, ai sáng? Mà ý hội tức mỗi người toàn quyền ngầm hiểu theo ý mình, hiểu ra sao
tùy hỉ, hướng thượng cũng xuôi mà hướng hạ cũng suốt hoặc cùng lắm là không thèm hiểu cũng chả sao nhưng, còn sót ở một vài nơi, hoang mang là tốt nhất, ví dụ:

1/ Cùng thời gian với cuộc đàm phán 6 bên về bom nguyên tử, trong một buổi học về kinh tế chính trị ở Pyong Yang (Bắc Hàn). Phó giáo sư tiến sĩ hỏi sinh viên A:

– Vậy qua tầm nhìn của em, nền kinh tế của đế quốc tư bản Mỹ đã đi đến đâu rồi?
– Sát bờ phá sản …
– Tốt. Còn kinh tế của nước ta?
– Dạ, qua mặt Mỹ một bước …

2/ Quay qua sinh viên B, phó giáo sư tiến sĩ hỏi:

– Tóm lại, tư bản là gì?
– Đúng là Người bóc lột Người!
– Còn cộng sản là gì?
– Là ngược lại!

Và xét cho cùng, cặp mắt trên khuôn mặt là mầm chính của mọi xáo trộn, mọi tội lỗi trên đời, vì tham-sân-si tuy tự tâm nhưng nếu mắt không nhìn, không thấy thì lấy đâu mà tham-sân-si?

Trích dẫn chứng cớ thì kể sao cho xiết vì ô trọc cuộc đời xảy ra từng sát na, chỉ xin đơn cử một vài thí dụ làm lệ:

* Một anh thanh niên thông manh nhưng lại thích lấy vợ đẹp. Cha mẹ anh cưới cho một người vợ vừa xấu, vừa chột. Hai vợ chồng yêu thương nhau lắm. Thanh niên thường sờ mặt vợ và nói: Em của anh
đẹp lắm. Người vợ quá cảm động đến quên cả ý tứ, âu yếm hỏi: Tại sao anh lại biết em đẹp? Thanh niên trả lời: Tại vì anh có con mắt ở bàn tay.

Sau một thời gian, cặp mắt của thanh niên sáng lại. Lúc thoạt nhìn thấy mặt vợ, anh ta trở nên tuyệt vọng rồi đuổi quách vợ về nhà.

* Nếu thượng đế đừng vẽ mắt cho Eva thì sao Eva thấy, biết được sự hấp dẫn của Trái Cấm trong vườn địa đàng, đâu bị rắn – cũng do thượng đế tạo ra – dụ dỗ, để đến nỗi gây hoạ cho cả đấng ông
chồng Adam và gây nên cái tội tổ tông đời đời kiếp kiếp thế nầy. Nghĩ cho rốt ráo thì trong bản án nầy, để cho công bằng, thượng đế vạn năng cũng có một phần lỗi không nhỏ vì đã không lường trước
được điểm tối trọng của”cửa sổ của tâm hồn”(2) trong tác phẩm do thượng đế tạo ra theo hình ảnh của chính ngài.

* Mỵ Nương mà có cặp mắt ở trên tay thì Trương Chi đâu đến nỗi ôm hận xuống tuyền đài …

* Hitler mà đui thì làm sao có thế chiến thứ hai …

* Thời Đông Châu Liệt Quốc có người tên Sư Khoáng, tự Tử Giả, là người học trò thông minh bậc nhất nước Tấn, lúc bé học âm luật, thường bực mình về nỗi không được chuyên, mới phàn nàn rằng: Nghề
không được tinh là tại bụng nghĩ nhiều thứ, bụng nghĩ nhiều thứ là tại đôi mắt hay nhìn, liền lấy lá ngài đốt mù mắt đi, để chuyên tâm về đường âm luật, do đó tinh nghề âm luật lắm, nghe tiếng
chim kêu cũng có thể biết được tốt xấu.

Trong làng âm nhạc hiện đại có nhiều ca nhạc sĩ mù nổi danh như Ray Charles, Steve Wonder …(Mỹ), Andréa Bocceli (Ý), Gilbert Montagné (Pháp), Saï Ngân (Lào), Văn Vỹ (Việt Nam) … và tôi có một
người bạn tên Nguyễn Huy Bá: Anh Bá bị hư đôi mắt từ thuở lên 5 vì bệnh đậu mùa, năm 1960 học trường khiếm thị tại Sàigòn, nay là trường Nguyễn Đình Chiểu. Tự học đàn hát. Có một thời là nhạc
trưởng trong một phòng trà tại Vientiane, nay anh mở lớp dạy đàn guitare và Piano. Trường hợp của anh Bá thật khít khao với bản nhạc”Người Nghệ Sĩ Mù”của Hoàng Thi Thơ, với chút khác biệt là anh
Bá có một người vợ vừa đẹp lại đảm đang tên Huyền, trước ở cùng xóm với tôi. Họ có với nhau hai người con đều đã trưởng thành. Tôi tin chắc rằng nếu có phép mầu nào đó làm cho anh Bá sáng mắt thì
anh sẽ càng yêu vợ anh hơn, chứ không giống anh chàng thông manh kể trên. Mỗi lần về Đông Nam Á, ghé Vientiane chúng tôi vẫn ca hát, đàm luận đủ thứ chuyện với nhau thâu đêm. Thiếu cặp mắt, bù
lại anh Bá có trí nhớ của một con voi: 1/ Anh chưa qua Pháp lần nào thế mà mấy tay cấp”thổ công thâm niên”như tôi ở Paris nghe anh nói chi tiết về các danh lam thắng cảnh ở kinh đô ánh sáng mà
ngớ cả người ; 2/ Chỉ cần anh bắt tay người nào đó một lần, thời gian sau gặp lại, chúng tôi đã thử, không cần xưng tên, chỉ lên tiếng chào và đưa tay cho anh nắm, anh sờ sờ một lúc rồi nói trúng
phóc tên đương sự ngay ; 3/ Cái số đào hoa của anh: Không cần phải nói, cho kẹo anh chàng cũng chẳng dám hé hồ lô bồ đề tâm cho nường nào khác, khi hậu duệ bà Hoạn Thư luôn luôn ở bên cạnh!

Mối tình Bá-Huyền phải chấm điểm”xưa nay hiếm”. Thật là luật bù trừ.

Một nhà bác học có nói: Muốn thế giới được hoà bình, bắt đầu trong bữa ăn của con người không thấy có giọt máu hay miếng thịt. Lời đạo đức đó đúng với kinh Phật dạy: tất cả chúng sanh không
nghiệp sát, làm gì thế giới không hoà bình. Và trong Sám Hối Lục Căn, nghiệp căn Mắt đứng đầu bảng:

Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh,
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành,
Chợp mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai,
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang,
Lòa mắt chưa sanh, bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn,
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô,
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam bảo, hoặc vào chùa chiền,
Gần tượng, thấy kinh mắt không thèm ngó.
Phòng Tăng, điện Phật gặp gở gái trai,
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ pháp, chẳng sợ Long thần,
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Ðều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người,
Dù được làm người, lại bị mù chột.
(Sám Hối Lục Căn, HT Thích Thanh Từ)

Thánh Kinh Công Giáo có nhiều đoạn nói tới con mắt, chẳng hạn: Người khôn ngoan có con mắt trong đầu mình … ; sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt
mình …

Cũng trong ý tưởng hoà bình trên, cách đây vài chục năm, ở Âu Châu, người ta đã nghiệm thấy rằng, một xã hội toàn người mù là một xã hội tránh được 99,50% tội ác. Sở dĩ người ta kết luận như vậy
vì sau một thời gian để cho những người mù sống chung với nhau. Và có người đã kết luận như sau: Muốn cho thế giới được thật sự hoà bình, cần phải làm cho nhân loại trở nên mù hết. Ý tưởng kỳ
quặc, nhưng không phải không có lý.

Mắt rồng (tướng giàu sang, gặp minh chủ), mắt khỉ (tướng giàu sang), mắt voi (tướng trường thọ), mắt dê (tướng mồ côi mà ương ngạnh), mắt sư tử (thương người) …Theo lẽ còn vài cặp mắt bệnh như
mắt vảy cá, mắt hột, mắt kèm nhem, mắt lão … ; những châm ngôn từ Kinh Thánh như mắt thường mắt răng thường răng, chớ khôn ngoan theo mắt mình, mắt từ thiện, mắt gian ác, mắt kiêu ngạo, mắt
tham lam, mắt là nguồn lụy, mắt là đèn của thân thể… ; những thành ngữ từ dân gian như mục hạ vô nhân, mắt trắng như lợn luộc, mắt ba vành đầu tám tọng, mắt giương như mắt ếch, mắt toé lửa, mắt
la mày lét, mắt to hơn bụng, mắt trước mắt sau, sướng lổ khu su con mắt, mèo mù vớ cá rán, giả đui dòm … cũng như còn vô vàn những con mắt trong kho tàng văn-thơ-nhạc việt nam: Đôi Mắt Người
Xưa – Trúc Phương, Nửa Hồn Thương Đau – Phạm Đình Chương, Mưa Trong Mắt Em – Vũ Tuấn Đức, Nắng trong Mắt Em – Vương Ngọc Long & Đức Minh, Thu Trong Mắt Em – Phạm Anh Dũng, Trong Mắt Em Là
Biển Nhớ – Ngô Thụy Miên, Mùa Xuân Trong Đôi Mắt Em – Đức Huy … ; nội trong trang Đặc Trưng tôi cu ki đọc được những 178 bài (05/08/05) …v.v & v.v…, song xét ra tâm điểm của bài nầy là
phiếm luận về những con mắt nguyên thủy trời định, còn những con mắt bệnh đã có bác sĩ nhãn khoa, những con mắt siêu thực, tượng ý văn nghệ đã có mấy trự nghệ sĩ lo rồi. Hơn nữa muốn tôn trọng
cái tựa bài nầy, người viết xin miễn lạm bàn phần huệ nhãn soi thấu ba ngàn thế giới của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vì, nói như các bạn đồng đạo của tôi, khi tôi chưa có cặp mắt”đạo”- nghĩa là
với”đôi mắt”đời và mãi đến nay chỉ tự nguyện quy y nhị bảo”, vả lại:

Mắt cận nhìn đời qua đôi kính
Thấy rõ trần gian – chốn điêu linh
Mắt cận chán đời không đeo kính
Mờ mờ hư ảo cõi phù sinh
(Mắt Cận, Niệm Nhiên)

thì tôi khó lòng”phá chấp, hỉ xả” được những tệ lậu, những thuyết diệt tham-sân-si của và giữa các bậc dẫn đạo ở hải ngoại, đặc biệt mới đây qua vụ án TL-TĐ (3) và vụ một ”vương cung” tín ngưỡng
trị giá sơ sơ mười triệu (10 triệu) Euros (4) ở Pháp, mà chẳng may tôi lỡ biết và đã, đang và sẽ”đoạn trường”vì nó hết sức vô duyên, cùng Thiên Nhãn Thông (Con Mắt Tối Cao), biểu tượng của đạo
Cao Đài ; con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét khắp thế gian … Và xin dọn lòng, nghiêng mình mong mỏi phần khảo luận nghiêm chỉnh quí hoá của các bậc uyên thâm giáo lý nhà Phật, thông thái Cao Đài
học, Thánh Kinh …

Hành hạ bàn phím vi tính tới đây tôi đã ngán nói về con mắt, dù chỉ mới léng phéng được vòng ngoài, định dứt ngang để ôn và chăm chú gõ đề tài khác thì trực nhớ ra còn sót hai loại mắt này:

1/ Sáu cặp mắt mèo

Hôm nay giáo viên giảng về hai chữ Cách Mạng trên thế giới: 1776 (Mỹ), 1789 (Pháp), 1917 (Nga) … Ông yêu cầu học sinh về nhà soạn mỗi đứa một câu có chữ Cách Mạng. Bữa sau, giáo viên gọi Hoàng
lên đọc câu em soạn. Hoàng đọc:

“Con mèo cái của em mới sanh sáu chú mèo con được hai ngày. Tất cả đều là những con mèo Cách Mạng tốt .”

Giáo viên khen ngợi Hoàng rồi đặn em về nhà làm một câu khác với chữ phản-cách-mạng.

Hôm sau, Hoàng lên đọc:

“Con mèo cái của em mới sanh sáu chú mèo con được ba ngày. Tất cả đều là những con mèo phản-cách-mạng tốt .”

Nghe xong, giáo viên quát Hoàng:

– Trước tiên, em phải biết là không hề có loại phản-cách-mạng tốt. Thứ đến, em thật không nhất trí tí náo cả. Hôm qua em đã bảo rằng mấy con mèo của em là những con mèo cách mạng tốt. Hôm nay
cũng mấy con mèo đó, thế mà …
– Dạ, thầy nói đúng, nhưng từ hôm qua, chúng đều mở mắt …

2/ Những mắt xích

Nhà văn con chiên gọi giây nói cho linh mục nhà báo:

– Thưa đồng chí cha. Hôm nọ đồng chí cha có nói với con rằng đồng chí cha có quen một đồng chí tổ trưởng tổ biến chế đồ phụ tùng xe ô tô, xe gắn máy …
– Đúng vậy. Bộ cậu có điều kiện sắm xe rồi sao?
– Làm gì có chuyện đó, thưa đồng chí cha. Đồng chí cha có nói tiếp rằng đồng chí đó là bà con của cô làm trong tổ bán thịt heo …
– Tiệc tùng, đãi đằng ai mà cần thịt?
– Dạ không … Đồng chí cha lại bảo cô ấy là tình nhân của một anh làm trong tổ dược khoa …
– À … cậu buôn thuốc?
– Đâu có. Đồng chí cha để con hết lời: Đồng chí cha đã quả quyết với con rằng anh chàng đó lại là em vợ nhỏ của đồng chí tổ trưởng tổ cứu hoả …
– Đúng thế. Nhưng mà sao?
– Dạ, nhà con đang bị cháy, đồng chí cha ạ …


Thay lời kết

Vai trò của đôi mắt, gẫm cho cùng, thật tối quan trọng. Cái miệng đôi khi gầm thét tưng bừng mà thiếu sự can thiệp với ít nhiều nộ khí của đôi mắt thì sự gầm thét sẽ giảm phần uy vũ.

Tiếng thét làm chết Hạ Hầu Kiết cùng làm cho tập đoàn Tào Tháo chạy trối chết, áo rách, mão rơi trên cầu Trường Bản của Trương Phi ; tiếng thét làm Phan Năng hết vía nhào xuống ngựa mà thác trong
trận Ngưu Chữ của Tôn Sách ; tiếng Kiai võ sĩ đạo Nhật Bản ; tiếng sư tử hống làm bạt vía quần hào của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn trong Cô gái Đồ Long (Kim Dung) hẳn cũng không ngoài lệ đó.

Cổ tích việt nam có truyện một người phù thủy đại tài bị vua trị tội bắt thắt cổ chết, ông ta cầm dây lụa ấy thắt thành một con rồng. Khi lính ập đến, ông vội cầm bút vẽ đôi mắt vào con rồng lụa,
thế là rồng vút bay lên. Tất nhiên bay luôn ông phù thủy.

Qua truyện ấy người ta có thể ghi nhận điều nầy: Sự bay của con rồng không thuộc khả năng quyết định của cánh, của vảy mà thuộc về phần đôi mắt. Ngoài ra, đối với những người sống bằng đường
nước, mỗi khi đóng xong một con thuyền, một chiếc ghe, sơn phết kỹ càng, thế mà thuyền, ghe vẫn chưa hạ thủy nếu chưa được điểm nhãn. (Hết)

Hàn Lệ Nhân

Chú thích:

(1) Louis Braille (1802 – 1852) bị mù từ năm lên 3, cha đẻ lối chữ dùng cho người khiếm thị, hiện được sử dụng trên thế giới.

(2) Trong Tân Ước có câu”L’oeil est la lampe du corps. Si ton oeil est en bon état, tout ton corps sera éclairé ; mais si ton oeil est en mauvais état, tout ton corps sera dans les ténèbres. Si
donc la lumière qui est en toi est ténèbres, combien seront grandes ces ténèbres”(Le Nouveau Testament, Matthieu 6: 22-23, trang 7 – The Gideons International Editions).
= Con mắt là đèn của thân thể. Nếu mắt ngươi sáng sủa thì cả thân thể ngươi sẽ được sáng láng ; nhưng nếu mắt ngươi xấu, thì cả thân thể sẽ tối tăm. Vậy, nếu sự sáng láng trong ngươi chỉ là tối
tăm, thì sự tối tăm nầy sẽ lớn biết là dường bao! (theo Kinh Thánh, vietchristian.net)

(3) Một sư ông, người”luôn luôn khiêm tốn, hiền hoà »,”thanh đạm, đơn sơ”(a), sau khi nhập diệt Tham-Sân-Si ngày 05/10/1998 (a), để lại cho ni bà sở hữu 5 (năm) ngôi nhà (maison/house) trong các
khu sang quanh Paris, tất cả đều đứng tên tục của sư ông (HĐC) và ni bà (HTB), một người”luôn giữ nét trầm tĩnh” »với nụ cười hiền từ”(b):

(a) http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/005-HTThienChau.htm

(b) http://www.congdongnguoiviet.fr/DienDan/ddPhanQuyetToaThuongThamParis.htm

http://www.quehuong.org.vn/vi/nr050307131435/nr050106094126/nr050315141759/ns050906101757

(4) 10 triệu Euros = ± 12,5 triệu US$ = ± 200.000.000.000 VND (hai trăm tỷ Đồng VN). Xuyên qua giáo lý mà tôi từng nghe và nhập tâm thì 200 tỷ VND – hay nhiều nhiều ức lần hơn nữa – cũng chỉ là
cát bụi (nhân gian là cát bụi, kiếp người – ngắn hay dài – là cát bụi (*)) do đó không nên nhìn cơ ngơi nầy là vật chứng biểu hiện lòng Tham-Sân-Si ngụp trong bể lửa của người đã, đang và sẽ
thuyết giảng dài dài, dẫu rằng 30 năm sau 1975, người Việt tị nạn tại Pháp – trong đó có tôi – vẫn chưa tự lập nổi một hội quán độc lập nho nhỏ chừng 100 ngàn Euros bên cạnh 38 (ba mươi tám) ngôi
chùa hay villa-chùa trên toàn xứ Pháp. Paris và vùng phụ cận có 13
ngôi:

http://www.chuavietnam.com/main.html

nhớ chọn France trong Select Country.

Mong bà con phật tử gấp rút cọng duyên, hồi hướng công đức hầu Ngôi Chùa Mới chóng trở thành”Ngôi Chùa Lớn Nhất Âu Châu », trước là thoả lòng vì Phật pháp của cao tăng, sau là Phật tử VN tại Pháp
có cơ sở hãnh diện chùa mình đồ sộ hoành tráng gấp vài lần ngôi chùa tại Hannover-Đức Quốc, khánh thành ngày 30/07/1991.

Mưu cầu và thuyết giảng diệt/giảm Tham-Sân-Si đến cấp nầy kể cũng chẳng uổng một kiếp phù sinh trong bể lửa. Úm ma ni cát mê hồng.

(*)
– Mẹ ơi, có phải sau khi chết người ta thành cát bụi phải không?
– Đúng đấy, con trai à!
– Thế thì dưới gầm giường nhà ta có bao nhiêu người chết ấy mẹ ạ!

http://www.baobariavungtau.com.vn/viet/tht_hoiquan/

TÀI LIỆU THAM KHẢO & TRÍCH LỤC
Thi ca bình dân VN, Phan Tấn Long & Phan Canh
Đọc lại truyện Kiều, Vũ Hạnh
Kim Vân Kiều, Nguyễn Du – Bùi Khánh Diễn chú giải
Góp nhặt cát đá, Đỗ Đình Đồng dịch
40 năm nói láo, Vũ Bằng
Giai thoại làng nho, Lãng Nhân
Đông chu liệt quốc, bản dịch Nguyễn Đỗ Mục
Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu
Ngư tiều vấn đáp, Nguyễn Đình Chiểu
Tục ngữ ca dao & dân ca, Vũ Ngọc Phan
Đôi mắt nhìn tôi, Bùi Minh Quốc
Ca dao tục ngữ góp nhặt, Nguyễn Thị Ngọc Liên
Thi ca tiền chiến & hiện đại, Bùi Văn Bảo
Người đàn bà trong tướng mệnh học, Vũ Tài Lục
Tục ngữ ca dao, Nguyễn Văn Ngọc
Cổ học tinh hoa, Nguyễn Văn Ngọc
Tín ngưỡng VN, Toan Ánh
Hoa đồng cỏ nội, Minh Hương

và nhiều tài liệu khác từ Internet.

Ce contenu a été publié dans Tiêng Viêt. Vous pouvez le mettre en favoris avec ce permalien.